Bàn về bói Kiều
Trong cuộc sống có một số người lúc bình thường xem bói, lúc khác thường cũng xem bói. Con người có mơ màng, có nghi vấn là thuộc tính bản chất. Nếu như con người không có mơ màng, không có nghi vấn thì cuộc sống của con người đó thiếu chân thật, không sâu sắc. Nhưng lúc nào cũng mơ màng, lúc nào cũng nghi ngờ thì con người ấy sẽ điên loạn.
Trong cuộc sống thường nhật, một số
người có thói quen bình an vô sự, thậm chí có những người bị lừa đảo vẫn không
dám phát hiện, phát giác kẻ bịp bợm. Trong cuộc sống của con người bình thường
là như thế, nhưng khi gặp khó khăn lại cầu viện đến thần linh phán đoán tốt -
xấu, họa - phúc, cho nên dẫn đến việc xem bói. Và người ta cho rằng luật nhân
quả, luật bù trừ, thuyết tài mệnh tương đố là hiện thực của cuộc đời. Nhất là
khi khoa học chưa phát triển, con người sống phụ thuộc vào tự nhiên, cho nên
thường tin vào thần linh, ma quỷ. Song nói cho hết lẽ, tuy khoa học đã phát
triển, nhưng người ta vẫn tin vào thần linh, tin vào tướng số để an ủi một phần
nào của cuộc đời. Tin vào số mệnh, người ta tìm đến thầy bói, xin quẻ, đoán
định tương lai, hay là đi chùa cúng lễ, cầu thần khấn Phật, xin thẻ phù hộ độ
trì, cầu tài lộc.
Do thực tế nghề nghiệp đòi hỏi các
thầy bói phải học bói, cho nên các thầy ít nhiều đều chịu ảnh hưởng Kinh
Dịch. Nói chung, quẻ bói lại thường trúng với điều mà con người yêu cầu. Đó
là nguyên lý thông tin tổng thể mà người xưa đã tổng kết trong Kinh
Dịch, một nguyên lý phổ biến đã được chứng thực bằng hiện tượng sống.
Nguyên lý ấy, theo quan niệm của Kinh Dịch - vũ trụ là thiên -
địa - nhân hợp nhất, vũ trụ là một chỉnh thể. Đặc biệt qua trải nghiệm người
xưa đã đúc kết, các hào của quẻ đều có mối liên hệ với cơ thể của con người. Các
quẻ ở Kinh Dịch đều cấu tạo bởi các hào âm và dương. Quẻ đơn
có ba hào, quẻ kép có sáu hào, tổng số hào của 64 quẻ là 384. Quẻ đơn có ba
hào, các bộ phận thân thể của con người nối với nhau bởi ba đốt (khớp)
xương. Kinh Dịch có 384 hào, trên thân thể người có 384 huyệt.
Chín khiếu của con người được sắp đặt theo hình quẻ Thái. Hào thứ 1, dương là
hậu môn, hào thứ 2, dương là lỗ tiểu, hào thứ 3, dương là miệng, hào thứ 4, âm
là hai lỗ mũi, hào thứ 5, âm là hai lỗ tai, hào thứ 6, âm là hai con mắt. Các trường
hợp trên có thể tóm tắt bằng hình quẻ như sau:
Quẻ Thái:
─ ─ 6 (hào trên cùng) - hai con mắt
─ ─ 5 hai lỗ tai
─ ─ 4 hai lỗ mũi
─ ─ ─ 3 miệng
─ ─ ─ 2 lỗ tiểu
─ ─ ─ 1 (hào đầu) - hậu môn
Qua hình quẻ Thái càng cho ta
thấy Kinh Dịch liên quan mật thiết với âm dương, ngũ hành, bát
quái, thiên can, địa chi v.v... Do đó, các thầy bói dùng bát quái, thiên can vào việc
bói Kiều.
Bát quái là hệ
thống phù hiệu hình quẻ của Kinh Dịch: “Dương” biểu thị bằng vạch
ngang liền “─ ─ ─ ” âm biểu thị bằng vạch ngang đứt “─ ─”. Bát quái, 64 quẻ đều
là cấu tạo bởi hai phù hiệu âm và dương xếp chồng lên nhau mà thành. Phạm vi
tượng trưng của âm và dương rất rộng, hai cái đó có thể lần lượt biểu thị cho
tất thảy các tượng vật đối lập trong xã hội loài người và giới tự nhiên, như
trời đất, con trai con gái, ngày đêm, trên dưới, thắng thua, vua tôi, vợ chồng
v.v..., cho đến khái niệm số chính, số phụ, điện âm, điện dương trong khoa học
hiện đại cũng tương thông với nó. Có thể nói, nghĩa rộng của âm dương ở
trong Kinh Dịch là một nguyên lý triết học về sự phát triển,
biến hóa, vận động của sự đối lập thống nhất, phản ánh tính chất phác trong
hình thức “tượng trưng” đặc biệt. Bát quái có quan hệ đối ứng nhất định của
hình quẻ, tên quẻ, vật tượng trưng như trong bảng dưới đây:
Tên quẻ
|
Hình quẻ
|
Vật tượng trưng
|
Kiền
|
Trời
|
|
Khôn
|
Đất
|
|
Chấn
|
Sấm
|
|
Tốn
|
Gió
|
|
Khảm
|
Nước
|
|
Ly
|
Lửa
|
|
Cấn
|
Núi
|
|
Đoài
|
Đầm (ao)
|
Còn Thiên can là: Giáp, Ất, Bính,
Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Dựa vào Bát quái, Thiên can, người
ta tạo dựng nên mười tám điều bói nhằm thỏa mãn một trong mười tám điều theo
yêu cầu của người đến bói:
BÁT QUÁI
1.KIỀN: Niên vận - cả năm tốt hay
xấu.
2.KHẢM: Công danh - thăng bổ sớm hay
muộn.
3.CẤN: Tài lợi - tiền của dồi dào
hay hao hụt.
4.CHẤN: Âm tín - muốn hỏi tin tức
của một ai.
5.TỐN: Tranh tụng - kiện tụng được
hay thua.
6.LY: Bình an - vận nhà bĩ hay thái.
7.KHÔN: Hôn nhân - việc vợ chồng tốt
hay xấu.
8.ĐOÀI: Thương mại - buôn bán lỗ hay
lãi.
THIÊN CAN
9.GIÁP: Thiên di - đổi dời chỗ ở êm
hay động.
10.ẤT: Tật bệnh - bệnh tật nặng hay
nhẹ.
11.BÍNH: Khoa đồ - Thi đỗ hay hỏng.
12.ĐINH: Tử tức - đường con cái ra
sao.
13.MẬU: Xuất hành - ra đi may hay
rủi.
14.KỶ: Truy tìm - tìm kiếm thấy hay
mất.
15.CANH: Ưu tư - lo sợ lành hay dữ.
16.TÂN: Thám yết - đi thăm có được
không.
17.NHÂM: Kỹ nghệ - nghề nghiệp lợi
hay hại.
18.QUÝ: Tâm sự - tình riêng có toại
(nguyện) hay không(1).
Những điều này chứng tỏ thầy bói cần
phải chuẩn bị điều kiện để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đến bói. Vì
khách hàng đến bói, thế nào cũng hỏi những điều cần thiết ấy. Mà nội dung Truyện
Kiều thì vô cùng phong phú. Truyện Kiều là một tác
phẩm thể hiện cuộc sống thông qua sự bày tỏ tình cảm, cảm xúc của chủ thể sáng
tạo. Nội dung tác phẩm là những cảm nghĩ mà cuộc sống gợi lên trong chủ thể
sáng tạo. Nó mang đậm màu sắc chủ quan, cho nên chủ thể sáng tạo có một lối thể
hiện riêng, từ con người, tính cách, cuộc sống, cho đến sắc thái tình cảm và
những quan hệ xã hội, tất cả đều tùy theo cá tính và bản lĩnh. Tâm trạng cá
biệt ấy được phản ánh trong tác phẩm là cả một quá trình cảm nhận cuộc sống của
con người. Nhờ những nội dung của tâm trạng ấy, chúng ta có thể nhận thức được
tác động của cuộc sống vào thế giới nội tâm con người, và từ đó hiểu được cái
thế giới tâm tư và tình cảm của con người đã, đang và sắp xảy ra. Cũng nhờ đó
mà chúng ta có thể xác định được phẩm chất tâm hồn của chủ thể: ước mơ, hy
vọng, lo lắng, yêu thương và căm ghét. Trong tác phẩm Truyện Kiều,
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài, cho nên ông hay dùng phương thức tạo hình để
phác họa ra cái tính cách nhân vật với những dáng vóc to lớn của Tú Bà hoàn
toàn khác với dáng vóc to lớn của Từ Hải. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, hai nhân
vật này vừa xuất hiện đã bộc lộ hai cá tính, hai cuộc sống nội tâm hết sức khác
nhau. Đoạn miêu tả Tú Bà:
"Thoát trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao?
Trước xe lơi lả han chào,"
(K, c.925)
Còn đoạn miêu tả Từ Hải:
"Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang
chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước
cao."
(K, c.2168)
Trong thực tiễn thơ ca, những đoạn
thơ hay được xây dựng theo phương thức tạo hình nhiều khi giống như những bức
tranh hoàn chỉnh hiện ra trước mặt người đọc. Truyện Kiều là
truyện thơ mang đậm tính chất trữ tình (hình tượng - cảm nghĩ) và tự sự (hình
tượng - tính cách). Tác giả đã thâm nhập cuộc sống, biết chọn lọc, trau chuốt
từ ngữ và những cảm xúc mãnh liệt của mình trước thiên nhiên, sự vật và con
người thì phương thức tạo hình vẫn là một phương thức quan trọng trong việc tạo
nên hình tượng trữ tình ở trong thơ. Đoạn thơ tả Tú Bà và Từ Hải ở trên, chính
là trường hợp như thế.
Trong thơ ca, khi cần miêu tả những
sắc thái nội tâm, những sự biến đổi trong tình cảm của con người, nhà thơ cần
nhiều đến phương thức biểu hiện. Ngược lại, khi cần miêu tả về không gian, thời
gian, những bối cảnh trong đó có con người hoạt động thì nhà thơ lại cần nhiều
đến phương thức tạo hình. Qua cách tạo hình ấy, nhà thơ muốn cho người đọc thấy
một nội tâm, một cá tính của nhân vật đang nói tới hay là của chính nhà thơ.
Trong thơ ca cổ, các nhà thơ thường sử dụng phương pháp tạo hình để phô diễn
tài năng sử dụng ngôn ngữ khi miêu tả những cảnh vật của trời đất, của thiên
nhiên. Trong thực tế, người đọc ở bất kỳ thời đại nào cũng đều có nhu cầu
thưởng thức những bài thơ hay, những vẻ đẹp của thơ. Chính vì lẽ ấy,
trong Truyện Kiều thơ tả tình thường gắn với tả cảnh. Một bút
pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du có sức lôi cuốn người đọc. Tác giả đã phác
họa tâm tư con người ẩn giấu, biểu hiện dưới hình ảnh của cảnh vật thiên nhiên.
Càng ở đoạn thơ tình tứ gay go bao nhiêu, ta lại càng thấy bút lực của nhà thơ
lại càng phát huy đến tột đỉnh đa nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng.
Do cuộc đời Nguyễn Du gắn bó với
cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở, với những con người lao khổ, cho nên
ngòi bút cũng rung cảm theo tâm hồn của nhà thơ. Nguyễn Du vừa là nhà thơ vừa là nhà tâm
lý. Ông hiểu và xét tâm lý của đời rất sành, cho nên ở Truyện Kiều có
nhiều đoạn thơ tả tình liên quan đến cảnh. Tình cảnh ảnh hưởng đến lý chí, đến
hoạt động, đến cảm giác của con người, cùng một cảnh ngộ, mỗi người cảm nghĩ
một cách, không ai giống ai, hiểu được tâm tình của con người đã khó, diễn tả
cho đúng tình cảm của con người lại càng khó hơn. Nguyễn Du là nhà thơ đã hiểu
thấu nội tâm của từng nhân vật, cho nên những câu thơ tả tình trong Truyện
Kiều thực là thần diệu, thể hiện một bút pháp điêu luyện, một tài năng
mẫn cảm ngôn từ của nhà thơ. Ví như đoạn thơ tả Kim Trọng tương tư. Chàng Kim
nặng gánh tương tư đến nỗi quên cả đèn sách, phím đàn, trong lòng vấn vương,
đầu óc luôn nhớ đến nàng Kiều. Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành, chàng cũng nhớ
đến nàng, nỗi nhớ ấy là: “hương đốt càng thơm càng thêm nhớ, nhớ đến nỗi uống
trà nhiều càng khản giọng ân tình”:
"Phòng văn
hơi giá như đồng,
Trúc xe ngọn
thỏ, tơ phùng phím loan.
Mành tương phân
phất gió đàn,
Hương gây mùi
nhớ, trà khan giọng tình."
(K, c.256)
Như trên đã
nói, trong Truyện Kiều có nhiều đoạn thơ tả tình liên quan đến
tả cảnh. Nguyễn Du tả cảnh là để người đọc hình dung được cảnh vật mà sinh cảm,
sinh tình như đứng trước thiên nhiên bao la, mênh mông, hùng vĩ. Nguyễn Du là
nhà thơ tả thực vô cùng xuất sắc, những câu thơ tả cảnh đều có tính hình tượng
rất cao. Ví như câu:
"Cỏ non
xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa."
(K, c.42)
Ở đây, tác giả
làm cho ta phải suy tư về từ “rợn” sau tính từ “xanh”. “Rợn” là một từ giàu sắc
thái biểu cảm, vừa có ý nghĩa chỉ một trạng thái của “xanh” vừa có ý nghĩa chỉ
trạng thái cảm giác của con người giống như là các từ “rờn rợn”, “rùng rợn”,
“sợ hãi”. Tác giả biểu thị trạng thái, tình cảm đối với đối tượng. Dường như
sau cái vẻ đẹp trong sáng của mùa xuân mà tác giả miêu tả, người đọc sẽ linh
cảm thấy một cuộc đời, một số phận éo le sắp xuất hiện.
Với bút pháp tả
cảnh thần tình, chỉ một vài câu thơ, Nguyễn Du tả một cảnh rất đầy đủ, tinh tế,
thú vị. Đó là nhờ những yếu tố nghệ thuật vốn có với sự kết hợp tài năng sáng
tạo của một nghệ sĩ thiên tài, Nguyễn Du đã phác họa nên cảnh sắc thiên nhiên
gắn bó với hoàn cảnh xã hội, với nội tâm nhân vật. Ở mỗi nhân vật, tác giả lại
có từ ngữ riêng để diễn tả từng người. Như khi tả hai chị em Thúy Kiều, Thúy
Vân thì Nguyễn Du tả mỗi người mỗi khác. Tác giả tả Thúy Vân:
"Vân xem
trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy
đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc
thốt, đoan trang,
Mây thua nước
tóc, tuyết nhường màu da."
(K, c.22)
Tác giả tả nhan
sắc Thúy Kiều:
"Làn thuy
thủ, nét xuân sơn,
Hoa ghen đua
thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng
nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi
một, tài đành họa hai."
(K, c.28)
Nhan sắc “Một
hai nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều chẳng những làm cho mọi người ham
muốn, khao khát mà Kiều còn có tài hơn người “Sắc đành đòi một, tài đành họa
hai”. Nguyễn Du diễn tả cái tài thiên bẩm của Thúy Kiều có đủ cả thơ, đàn, họa.
Nổi bật nhất
là, trong Truyện Kiều con người và cảnh vật thường hòa quyện vào
nhau:
"Đòi phen
gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết
ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ."
(K, c.1244)
Từ những mối
quan hệ khăng khít đó với sự sống còn của con người, với những biến đổi của
chúng thì chúng ta có thể khẳng định: Truyện Kiều không phải
là một sách bói như Kinh Dịch. Truyện Kiều là một
cuốn tiểu thuyết tâm lý - xã hội, là một bản cáo trạng bằng thơ lên án chế độ
phong kiến thối nát, tàn bạo. Tác giả dùng bút pháp tự sự, giới thiệu nhân vật,
tả cảnh thiên nhiên hay đối thoại v.v..., những biện pháp này đều không tồn tại
độc lập, mà nó liên quan hữu cơ với nhau. Tuy có những yếu tố đối lập nhau,
nhưng các yếu tố này đều diễn biến trong quá trình biện chứng của tâm hồn của
từng nhân vật. Những mâu thuẫn trong tâm lý, quá trình phát triển khách quan
của xã hội, của các thời đang sống của chính nhân vật, bất cứ là các nhân vật
tích cực như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải... hay là những nhân vật tiêu cực như
Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến... cũng đều là phác họa theo bút pháp của
tác giả. Nghĩa là tác giả thấu hiểu tâm lý của từng nhân vật theo quy luật sống
và biến đổi của xã hội. Đó là bút pháp nghệ thuật thiên tài của Nguyễn Du cho
mọi người yêu mê Truyện Kiều và có thể vận dụng những câu thơ Kiều vào
mọi phương diện, mọi tìn huống theo mục đích riêng của mình, thậm chí có những
người biến Truyện Kiều thành sách bói để hỏi những điều liên
quan đến đời sống tương lai của mình.
Rõ ràng Truyện
Kiều là một tác phẩm hiện thực, xuất phát từ những tiền đề rộng lớn,
phong phú, hướng con người vào tình thương bao la quí trọng mọi sự sống. Vì
thế, số thứ tự của câu thơ trong Truyện Kiều có sự trùng hợp
ngẫu nhiên mà ta tưởng đấy là những câu đoán. Ví như câu Kiều 83
nói về phụ nữ: "Đau đớn thay phận đàn bà" lại trùng với ngày Quốc tế
phụ nữ tháng 3.
Hay là
câu Kiều 1954: "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai".
Đọc câu này, khiến ta suy tưởng đến năm ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ tạm thời
chia đất nước ta làm hai miền.
Những hiện
tượng trùng hợp này là ngẫu nhiên, tình cờ, chứ không phải là những câu thơ
nhằm phục vụ cho việc xem bói. Nếu như Nguyễn Du có chủ ý để người đời xem bói
thì số thứ tự của các câu Kiều khác sẽ thế nào? Cố nhiên, việc
sử dụng Truyện Kiều, mỗi người có một mục đích riêng, tùy sở thích
của mỗi người. Nhưng có sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, ta mới thấy hiệu quả giá
trị của Truyện Kiều - một tác phẩm văn học cổ điển tiêu biểu
của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Qua những mẩu chuyện Bác Hồ sử dụng Truyện
Kiều dưới đây, ta sẽ thấy rõ điều này:
“Tháng 3 năm
1945, khi tiếp xúc với các đại biểu về dự đại hội Tân Trào, Bác Hồ xúc động
nói:
"Đến bây
giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc
những ngày một hai".
(K, c.2282)
Năm 1930, một
đêm nọ, trên đất nước Trung Hoa, Bác hỏi đồng chí Trần Phú:
- Đồng chí Lý
ngủ hay thức đấy?
- Tôi mới chợt
dậy ạ!
- Mình vừa có
một giấc mơ về bên nhà.
Nói xong, Bác
ngồi lặng yên trên giường, mắt nhìn vào màn đêm thăm thẳm. Lúc lâu, Người khe
khẽ đọc:
"Tình sâu
mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp
cánh này cho chưa?
Mối tình đòi
đoạn vò tơ
Giấc hương quan
luống ngẩn ngơ canh dài
Song sa vò võ
phương trời
Nay hoàng hôn
đã lại mai hôn hoàng..."
(K, c.1268)
Bác còn sử
dụng Kiều trong hoạt động đối ngoại, và đem lại hiệu quả lớn.
Năm 1946, khi
sang thăm chính thức nước Pháp với tư cách thượng khách của nước này. Bác có
dịp thăm và nói chuyện với bà con Việt kiều tại Paris. Kết thúc buổi nói
chuyện, Bác đọc hai câu Kiều:
"Gìn vàng
giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng
kẻ chân mây cuối trời".
(K, c.546)(2)
Những trường
hợp trùng hợp nêu ở trên là do người đọc suy diễn, chứ Nguyễn Du không có ý bói
toán. Bởi vì, chính Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều, bói toán
là quàng xiên:
"Chẳng qua
đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà
lại thấy trên cõi trần".
(K, c.1702)
Nhưng trong
những ngày tết âm lịch, những ngày nông nhàn, các bà, các chị nhẹ dạ cả tin lại
đem Kiều ra đọc, rồi lẩy Kiều, tập Kiều,
bói Kiều. Theo cách bói dân dã, người ta thắp hương khấn vái biểu
thị sự thành tâm: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, con
tên là... ở... cầu xin câu đầu, câu cuối hoặc đoạn giữa trang”. Theo thông lệ
“trai tay trái, gái tay mặt”, người ta dựa vào đó để tìm câu trả lời, và tự
mình suy ngẫm thấy ứng nghiệm, liền vận vào mình và tấm tắc khen: Kiều nói
đúng, nói hay.
Thế là, có
người sưu tầm, sắp xếp và lựa chọn các câu tập Kiều lập nên 15
đáp án mà các thầy bói trước đây sử dụng để trả lời khách hàng đến xem bói theo
yêu cầu một trong 18 đề mục kể trên.(3)
Mỗi đề mục,
người ta tạm nêu ra 15 đáp án, mỗi đáp án có hai câu tập Kiều. Ví
dụ: Khách hàng hỏi về việc kiện tụng (Tốn) thì ở đề 5 đã có những cách trả lời
như sau:
"Tha ra thì cũng may đời
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm
chi".
(K, c.2375)
Kết quả đã được tha.
"Mặt sao dày gió dạn sương,
Giơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo
lui".
(K, c.1188)
Báo hiệu nên
rút lui.
Về cách bói
này, trước hết người đến bói phải xem mình cần hỏi mục nào thì xem số thứ tự
nằm trong 18 đề mục. Ví như khách hàng hỏi về đường công danh thì tìm ở mục 2 -
Khảm, rồi tìm số thứ tự câu trả lời trong 15 đáp án(4). Những đáp án
này đều ở Truyện Kiều, mà Truyện Kiều không phải
là sách bói, cho nên chúng ta đừng quá tin vào bói Kiều.
Thêm vào đó,
Phạm Đan Quế lại thừa nhận: “Sách bói toán phương Đông thì Kinh Dịch của
Trung Quốc là một tác phẩm lớn thời cổ đại mà các nhà bói toán thường dựa vào
như một cuốn sách cẩm nang”.(5)
Nếu nói như thế
thì ngay cách bói về kiện tụng đã nêu ở trên lại mâu thuẫn với Kinh
Dịch. Vì trong Kinh Dịch đã có sẵn quẻ Tụng nói về thời
kiện tụng, chứ không phải quẻ Tốn như đề mục đã ghi...
Nói về bói Dịch thì
vô cùng khó. Chẳng những người xem bói phải tham khảo lời quẻ, lời hào, mà còn
phải căn cứ vào tình hình thực tế để đưa ra những lời phán thích hợp. Người xem
bói chẳng những hiểu sâu đạo lý của Kinh Dịch mà còn phải có
kinh nghiệm sống mới có thể đưa ra những dự đoán tương đối chính xác, ít sai
lầm. Ở ta hiện nay có người tự cho mình giỏi về bói Dịch, chẳng qua
chỉ là dùng phép lạ, lợi dụng Kinh Dịch làm bức bình phong để
đề cao mình.
Lịch sử Việt Nam cũng đã ghi chép, từ thời xa xưa nước ta đã có những nhà Dịch học nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn v.v... đều là những bậc danh Nho của một thời. Cũng cần nói thêm, không phải có chữ Nho là có thể bàn về Dịch. Cụ thể Nguyễn Trường Tộ là người vùa giỏi Tây học lại vừa giỏi Nho học, những năm Tự Đức thứ 24 (1871), ông viết một bài điều trần, trong đó ông dùng thuyết âm dương, ngũ hành tương sinh tương khắc của Kinh Dịch để chứng minh, giải thích việc Pháp xâm chiếm nước ta, việc nước Việt Nam bại trận, là thuộc “lẽ thường của trời đất”. Nguyễn Trường Tộ viết: “Chúng tôi thiết nghĩ trong thiên hạ chỉ có cái “thế” mà thôi. Chữ thế gồm cả thiên thời và nhân sự. Những ai hiểu rõ chữ thế thì không trái trời, không sai thời, không hại người, không hỏng việc. Nay xin trước lấy đạo trời mà nói: khí trời từ bắc xuống nam, vận trời từ tây sang đông. Xem trong bản Hà đồ ở Kinh Dịch thì thủy ở bắc, hỏa ở nam, kim ở tây, mộc ở đông. Thủy diệt hỏa, kim diệt mộc, đó là lẽ thường của trời đất”. Vậy nước ta ở phía nam đối với Trung Quốc, ở phía đông đối với Pháp, mà nam là hỏa, bắc là thủy, thủy diệt hỏa, tức là Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ; đông là mộc, tây là kim, kim diệt mộc, tức là Pháp đánh bại Việt Nam, Pháp lấy Việt Nam làm thuộc địa; đó là điều mà âm dương, ngũ hành đã nói rõ rồi, đã khiến chắc như thế, chạy đâu cho khỏi. Làm gì được nữa? Đấy, âm dương, ngũ hành dắt đến những giải thích, những kết luận tai hại, ngu ngốc như thế đấy(6). Qua đó, ta thấy vận dụng Kinh Dịch, âm dương, ngũ hành vào việc suy đoán vận mệnh con người và đất nước không phải dễ dàng. Ở ta hiện thời các thầy bói cũng chỉ là học mót nói dựa. Các thầy nghe lời truyền trong dân gian: Tí Ngọ Mão Dậu tứ hành xung; Tị Dần Thân Hợi tứ hành xung; Thìn Tuất Sửu Mùi tứ hành xung, và các thầy lại nghe người ta nói đến ngũ hành tương khắc: kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim mà cho là xung và hạn.
Nhưng thật đáng tiếc, các thầy bói còn chưa hiểu hết 60 hoa giáp tý. Người xưa đã lập bảng 60 hoa giáp tý như sau:
NĂM
|
MỆNH
|
NĂM
|
MỆNH
|
NĂM
|
MỆNH
|
NĂM
|
MỆNH
|
NĂM
|
MỆNH
|
Giáp Tý
|
Kim trong biển
|
Bính Tý
|
Thủy dưới khe
|
Mậu Tý
|
Hỏa thu lôi
|
Canh Tý
|
Thổ trên tường
|
Nhâm Tý
|
Mộc dâu tùng
|
Ất Sửu
|
Đinh Sửu
|
Kỷ Sửu
|
Tân Sửu
|
Quý Sửu
|
|||||
Bính Dần
|
Hỏa trong lò
|
Mậu Dần
|
Thổ tường thành
|
Canh Dần
|
Mộc tùng bách
|
Nhâm Dần
|
Kim vàng dát mỏng
|
Giáp Dần
|
Thủy ở khe lớn
|
Đinh Mão
|
Kỷ Mão
|
Tân Mão
|
Quý Mão
|
Ất Mão
|
|||||
Mậu Thìn
|
Mộc rừng
tốt
|
Canh Thìn
|
Kim trong
nến
|
Nhâm Thìn
|
Thủy trường
lưu
|
Giáp Thìn
|
Hỏa đèn
thờ
|
Bính Thìn
|
Thổ trong
cát
|
Kỷ Tỵ
|
Tân Tỵ
|
Quý Tỵ
|
Ất Tỵ
|
Đinh Tỵ
|
|||||
Canh Ngọ
|
Thổ
bên đường
|
Nhâm Ngọ
|
Mộc dương liễu
|
Giáp Ngọ
|
Kim trong cát
|
Bính Ngọ
|
Thủy thiên hà
|
Mậu Ngọ
|
Hỏa trên trời
|
Tân Mùi
|
Quý Mùi
|
Ất Mùi
|
Đinh Mùi
|
Kỷ Mùi
|
|||||
Nhâm Thân
|
Kim mũi kiếm
|
Giáp Thân
|
Thủy trong suối
|
Bính Thân
|
Hỏa dưới núi
|
Mậu Thân
|
Thỏ bãi rộng
|
Canh Thân
|
Mộc thạch lựu
|
Ất Sửu
|
Ất Dậu
|
Đinh Dậu
|
Kỷ Dậu
|
Tân Dậu
|
|||||
Giáp Tuất
|
Hỏa đầu núi
|
Bính Tuất
|
Thổ nền nhà
|
Mậu Tuất
|
Mộc đất bằng
|
Canh Tuất
|
Kim trâm thoa
|
Nhâm Tuất
|
Thủy biển cả
|
Ất hợi
|
Đinh Hợi
|
Kỷ Hợi
|
Tân Hợi
|
Quý Hợi
|
|||||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Sự sắp xếp của thiên can địa chi trong năm tháng, ngày, giờ sinh của con người có thể tra trong bảng này. Trong bảng phân chia ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tức là chia đời người 60 năm theo 5 loại mệnh: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Trong bảng, cứ hai năm là một hàng, là một năm mệnh. Người sinh năm kim là mệnh kim, người sinh năm hỏa là mệnh hỏa. Ví dụ, người sinh năm 1924, 1984 (năm Giáp Tý), năm 1925, 1985 (năm Ất Sửu) đều là mệnh “kim trong biển, gọi tắt là mệnh kim”. Các mệnh khác thì trong bảng đã nêu, 60 năm là một chu kỳ, tròn một vòng thì bắt đầu lại.
Trong bảng 60 Giáp Tý, phân chia con
người thành 5 loại mệnh: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Năm loại mệnh này tồn tại và
phát triển theo quan hệ sinh khắc trong ngũ hành, đặc biệt là từng cặp tương
khắc. Như hỏa khắc kim, nhưng “kim trong biển”, “kim trong cát”, thì hỏa không
dễ dàng khắc kim. Như “kim mũi kiếm” thì lại mừng có hỏa (lửa) luyện kim, vì nó
chỉ có qua lửa nung luyện mới có thể thành kiếm sắc. “Kim trong biển”, “kim
trong cát” tuy không dễ khắc hỏa, nhưng nó cũng sợ “hỏa thu lôi”, vì hỏa thu
lôi có thể đánh xuống tận đáy biển, đánh vào tận tầng đất sâu.
Kim có thể khắc mộc, nhưng cột gỗ
phần nhiều lại thích kim chế ngự, kim đóng vào gỗ lâu ngày đến lúc kim suy
không thể khắc mộc vượng. Nói chung, mộc yếu gặp kim vượng thì bất lợi, nhưng
“mộc rừng tốt”, “mộc đất bằng” rất khó bị kim khắc. Mộc rất sợ “kim mũi kiếm”,
vì “kim mũi kiếm” là kim đã thành vũ khí.
Mộc có thể khắc thổ, nhưng “thổ trên
tường”, “thổ nền nhà” rất khó bị mộc khắc. Thổ rất dễ bị “mộc rừng tốt”, “mộc
đất bằng” khắc.
Thổ có thể khắc thủy, trái lại, thủy
nhiều, thủy vượng bao vây thổ, có thể tưới ruộng, tưới nhuần muôn vật, thổ suy
không thể khắc thủy vượng. Nếu như thủy suy thổ vượng tất phải bị thổ khắc.
Thủy có thể khắc hỏa, nhưng hỏa
nhiều hỏa vượng thích chế ngự thủy. Hỏa vượng thủy suy, không sợ thủy khắc. Như
“hỏa trên trời”, “hỏa thu lôi” chẳng những không sợ thủy khắc, trái lại trời
càng mưa to lại càng lợi hại, còn có thể chui xuống đáy biển khắc thủy...(7)
Ở đây, mới chỉ tạm nói đến ngũ hành
tương khắc mà chúng ta đã thấy quá phức tạp. Một quẻ bói không phải chỉ có
quyết định bởi tương sinh tương khắc mà còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác
nữa, như cung, cục v.v... Cố nhiên, âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc có
ảnh hưởng quan trọng đối với cuộc đời con người. Nhưng xử lý quan hệ giữa con
người với nhau, đặc biệt là quan hệ giữa vợ chồng, tuổi mệnh tương sinh là tốt.
Nếu như hai người gặp tuổi mệnh tương khắc thì cần phải xem có thể khắc được
không, lại còn phải sắp xếp tổ hợp tứ trụ của đôi bên, tương sinh, tương chế và
tương hợp. Ngoài ra còn phải tính đến những qui luật khác của tự nhiên, của xã
hội, của truyền thống, của tâm lý nữa v.v... Không thể vừa thấy tuổi xung khắc
đã cho là không tốt. Đó là cách nhìn không đầy đủ, không chính xác. Nhất là đối
với loại thầy bói “buôn thần bán thánh” lại càng không nên tin cậy. Họ đưa ra
những điều xung khắc là để hù dọa người khác để lừa người nhẹ dạ, cả tin, làm
điều hại nhân trước sau cũng bị trừng trị.
Trong cuộc đời của mỗi người, tốt
nhất là chúng ta không làm điều gì trái với đạo lý làm người, giữ vững truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chịu khó học tập, cần cù lao động, luôn luôn
hướng thiện, làm việc nhân nghĩa thì đời sống của ta sẽ thanh thản, đời con
cháu ta, gia đình ta sẽ hạnh phúc, phồn vinh. Chúng ta chẳng phải cầu thần xin
quẻ, bói Kiều vướng mắc vào vòng luẩn quẩn “bói ra ma quét nhà
ra rác”.
Chú thích:
1.Phạm Đan Quế: Bình Kiều,
Vịnh Kiều, Bói Kiều, Nxb. Hải Phòng, 1998, tr.111.
2.Trần Đương: Bác Hồ với
Truyện Kiều trong những năm xa nước. Hội nhà văn Việt Nam, Văn nghệ số
6+7+8, 2007, tr.2.
3.4.5. Phạm Đan Quế: Sđd, tr.114,
tr.116, tr.163.
6. Trần Văn Giàu: Sự phát
triển của tư tưởng ở Việt Nam, tập 1, Nxb. KHXH, H. 1978, tr.150-151.
7. Thiệu Vĩ Hoa: Chu Dịch dữ
dự trắc học, Hoa Sơn văn nghệ xuất bản xã, 1990, tr.82; tr.91./.
GS.TS. LÊ VĂN QUÁN
Trường Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội
(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (106) 2011, Tr.3 - 12)
CÙNG CHUYÊN MỤC
-
“Truyện Kiều” lập kỷ lục thế giới
Trung tâm Kỷ lục Việt Nam cho biết ngày 2-12, Tổ chức Liên minh Kỷ lục thế giới đã chính thức gửi văn bản xác nhận kỷ lục thế giới mới dành cho tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Theo đó, “Truyện Kiều” chính thức trở thành “Tác phẩm văn học tạo nên nhiều kỷ lục quốc... -
“Truyện Kiều” - "tấm căn cước văn hóa” của người Việt
Nguyễn Du và “Truyện Kiều” là hiện tượng văn học, văn hóa có ý nghĩa đặc biệt, hàm chứa giá trị bất tận ở mọi thời đại, mọi không gian. Gần 140 năm kể từ bản dịch đầu tiên của Abel des Michels xuất bản vào năm 1884, đến nay, các dịch giả trên khắp thế giới đã và đang không ngừng...